Chính sách tài khóa liên ngành trong các mô hình kinh tế vĩ mô: Giới thiệu và các giải pháp thay thế chính
Tóm tắt chính sách # 95, bởi Michael O'Hanlon (tháng 3 năm 2002)
Việc đảng Cộng hòa tiếp quản Hạ viện trong cuộc bầu cử năm 2010 đã gây ra một loạt các cuộc chiến ngân sách giữa Nhà Trắng và các đảng viên Cộng hòa trong quốc hội sẽ diễn ra gay gắt vì…
Stuart Butler lập luận rằng Hoa Kỳ nên ngân sách dài hạn hơn cho những thứ như quyền được hưởng.
Robert Litan và Roger Noll chạy các con số để xem chi tiêu của NATO sẽ tăng lên bao nhiêu nếu tất cả các nước thành viên ngay lập tức tăng chi tiêu quốc phòng lên mục tiêu 2% GDP.
Trong năm 2000–01, thâm hụt tài khoản vãng lai của Bồ Đào Nha đạt 10% GDP, tăng từ 2–3% vào đầu những năm 1990. Những thâm hụt này được dự báo sẽ tiếp tục trong khoảng 8-9% trong tương lai vô thời hạn. Hy Lạp không hề kém xa. Thâm hụt tài khoản vãng lai của nó trong giai đoạn 2000–01 bằng 6–7 phần trăm GDP, tăng từ 1–2 phần trăm vào đầu những năm 1990, và một lần nữa, dự báo thâm hụt vẫn ở mức cao, trong khoảng 5-6 phần trăm. Đây không phải là lần đầu tiên một số nước thành viên nhỏ của Liên minh châu Âu thâm hụt tài khoản vãng lai lớn. Ví dụ, vào đầu những năm 1980, Bồ Đào Nha thâm hụt vượt quá 10% GDP. Nhưng những khoản thâm hụt đó có một hương vị rất khác so với ngày nay: Bồ Đào Nha khi đó vẫn đang quay cuồng với cuộc cách mạng năm 1975, từ việc mất các thuộc địa và từ cú sốc dầu mỏ lần thứ hai; chính phủ đang thâm hụt ngân sách lớn, vượt quá 12% GDP. Thâm hụt tài khoản vãng lai được nhiều người coi là không bền vững, và thực tế là do: từ năm 1980 đến năm 1987, đồng escudo đã bị mất giá 60%, và thâm hụt tài khoản vãng lai đã được loại bỏ. Ngược lại, Bồ Đào Nha hôm nay không phải hứng chịu những cú sốc bất lợi lớn; thâm hụt ngân sách chính thức đã được giảm bớt kể từ đầu những năm 1990 (mặc dù có một số dấu hiệu tái phát vào năm 2002, như các ước tính hiện tại ngụ ý rằng Bồ Đào Nha có thể vượt quá giới hạn áp đặt bởi Hiệp ước ổn định và tăng trưởng năm 1997 giữa các nước tham gia liên minh tiền tệ châu Âu); và thị trường tài chính không có dấu hiệu lo lắng. Thực tế là
TRONG HƠN 20 năm, nền kinh tế công nghiệp trưởng thành, giàu có nhất thế giới đã dựa rất nhiều vào nguồn tiết kiệm có hạn của thế giới để hỗ trợ tiêu dùng cao — vào những năm 1980 của chính phủ liên bang và vào những năm 1990 của các hộ gia đình. Trong thập kỷ qua, tiết kiệm cá nhân đã giảm nhiều hơn tiết kiệm của chính phủ (thể hiện trong thặng dư ngân sách gần đây) đã tăng lên. Mức thâm hụt khổng lồ trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán Hoa Kỳ, tương đương với khoảng 4,4% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) vào năm 2000, phản ánh khoảng cách tiết kiệm này. Để hỗ trợ mức bình thường của tổng đầu tư trong nước (trước đây là khoảng 16 đến 17 phần trăm GNP) cũng như mức tiêu dùng gia tăng này, Mỹ đã phải dựa rất nhiều vào việc tiết kiệm của phần còn lại của thế giới. Trên cơ sở dòng chảy, Hoa Kỳ hiện thu hút nhiều vốn ròng hơn tất cả các nước đang phát triển cộng lại.
Lập ngân sách hai năm một lần là bước quan trọng đầu tiên hướng tới cải cách quy trình ngân sách rộng lớn hơn và tôi ủng hộ mạnh mẽ dự luật của Đại diện Reid Ribble, H.R. 1610, một dự luật lưỡng đảng với 225 người đồng phản ứng đáng kinh ngạc.
Đánh giá về Brookings, Mùa hè 1996
Stuart Butler, Timothy Higashi, Layla Zaidane và Joe Greaney chia sẻ một bộ công cụ để tạo khung tranh luận về nợ quốc gia cho thế hệ thiên niên kỷ, dựa trên những bài học kinh nghiệm từ cuộc tranh luận về biến đổi khí hậu.
Trong hai năm rưỡi qua, triển vọng ngân sách liên bang chính thức của Hoa Kỳ đã xấu đi một cách ngoạn mục
Chính phủ liên bang sở hữu và cho thuê khoảng 360.000 tòa nhà và 3,3 tỷ feet vuông không gian. Tuy nhiên, các quy tắc ngân sách chi phối đầu tư vào bất động sản không phù hợp với nhiệm vụ quản lý bất động sản của chính phủ. Trong bài đăng này, Dorothy Robyn giải thích cách cải cách 'chấm điểm' tài sản của liên bang có thể vừa hiện đại hóa cơ sở vật chất của chúng ta vừa tiết kiệm hàng tỷ đô la.
Bài báo do Robert E. Rubin, Peter R. Orszag và Allen Sinai trình bày. (01/05/04)
William Galston xem xét sự phục hồi chậm chạp của nền kinh tế Hoa Kỳ, cho rằng khoảng cách kinh tế xã hội ngày càng tăng đã góp phần vào sự phân cực gia tăng trong chính trị và suy giảm lòng tin vào chính phủ. Galston viết rằng cuối cùng, khủng hoảng kinh tế là một cuộc khủng hoảng quản trị và sự bế tắc về trần nợ là một triệu chứng của thực tế hệ thống này.
DỰ ĐOÁN rằng năm 2001 thâm hụt tài khoản vãng lai của Hoa Kỳ sẽ lên tới 450 tỷ đô la, hay 4,4% GDP, tăng từ 3,6% năm 1999. Cán cân tài khoản vãng lai đạt được lần cuối vào năm 1991 (1981 nếu loại trừ các khoản thu đặc biệt liên quan đến Chiến tranh vùng Vịnh cho năm 1991 ). Người ta phải quay trở lại hai thập kỷ trước năm 1914, thời kỳ nhập cư ồ ạt và xây dựng cơ sở hạ tầng rộng rãi, để tìm ra mức thâm hụt thậm chí lớn xấp xỉ so với GDP như những năm gần đây. Theo tiêu chuẩn toàn cầu, Hoa Kỳ được coi là một quốc gia tương đối giàu vốn. Vậy tại sao lại nhập khẩu nhiều vốn hơn bao giờ hết? Thâm hụt trên quy mô này có bền vững không? Chúng có khả năng được duy trì không?
Tim Penny và Bill Frenzel, đồng chủ tịch Ủy ban Ngân sách Liên bang có trách nhiệm, viết rằng với việc đất nước đang trên bờ vực vỡ nợ, thời điểm để thỏa hiệp chính trị đối với cuộc tranh luận về trần nợ đã đến. Các tác giả xem xét tiền lệ được đặt ra vào những năm 1980 khi một chính phủ bị chia rẽ đã cùng nhau ban hành các biện pháp kiểm soát ngân sách để đổi lấy việc tăng giới hạn nợ.
Tóm tắt chính sách # 15, bởi Michael E. O'Hanlon (tháng 4 năm 1997)
ĐỊNH NGHĨA NGÂN SÁCH của chính phủ liên bang đã nổi lên như một trọng tâm trong cuộc tranh luận về chính sách công của Mỹ, thu hút sự chú ý lo lắng từ nhiều khu vực bầu cử. Bên trái bây giờ tăng…
Một vài (rất) quan sát ban đầu về chương đầu tiên của ngân sách Trump, lần đầu tiên tổng thống mới thực sự đưa ra các đề xuất đô la và xu. America First đã được dịch sang…